Khi chi phí cao, sự đổi mới sẽ xuất hiện để tận dụng những sự kém hiệu quả. Tuy nhiên, sự đổi mới có thể bị làm chậm lại bởi một lớp trung gian quyền lực. Một ví dụ ban đầu về tài chính phi tập trung đã xuất hiện trong thị trường ngoại hối (forex - foreign exchange) 20 năm trước. Vào thời điểm đó, các tập đoàn lớn đã sử dụng các ngân hàng đầu tư của họ để quản lý nhu cầu ngoại hối. Ví dụ, một tập đoàn có trụ sở tại Hoa Kỳ có thể cần 50 triệu Euro vào cuối tháng 9 để thanh toán cho một số hàng hóa đã mua ở Đức. Ngân hàng của họ sẽ đưa ra một mức tỷ giá cho giao dịch. Cùng lúc đó, một khách hàng khác của ngân hàng có thể cần bán 50 triệu Euro vào cuối tháng 9. Ngân hàng sẽ đưa ra một mức tỷ giá khác. Sự khác biệt trong tỷ giá được gọi là chênh lệch (spread) và chênh lệch này là lợi nhuận mà ngân hàng kiếm được khi đóng vai trò trung gian. Với thị trường ngoại hối trị giá hàng nghìn tỷ đô la, đây là một phần quan trọng trong lợi nhuận của ngân hàng.
Vào đầu năm 2001, một startup fintech đã đưa ra ý tưởng sau. Thay vì các tập đoàn riêng lẻ truy vấn các ngân hàng khác nhau để có được mức tỷ giá tốt nhất, tại sao không có một hệ thống điện tử khớp trực tiếp người mua và người bán với một mức giá đã thỏa thuận và không có chênh lệch (spread)? Thực tế, ngân hàng có thể cung cấp dịch vụ này cho chính khách hàng của mình và thu một khoản phí khiêm tốn (so với chênh lệch). Hơn nữa, vì một số khách hàng giao dịch với nhiều ngân hàng, nên có thể kết nối khách hàng tại tất cả các ngân hàng tham gia vào mạng lưới ngang hàng (peer-to-peer network).
Bạn có thể tưởng tượng phản ứng. Ngân hàng có thể nói: "Bạn đang nói với tôi rằng chúng ta nên đầu tư vào một hệ thống điện tử sẽ 'ăn thịt' công việc kinh doanh của chúng ta và phần lớn loại bỏ một trung tâm lợi nhuận rất quan trọng?" Tuy nhiên, ngay cả 20 năm trước, các ngân hàng đã nhận ra rằng các khách hàng lớn nhất của họ rất không hài lòng với hệ thống hiện tại: khi toàn cầu hóa tăng mạnh, các khách hàng này phải đối mặt với các chi phí giao dịch ngoại hối không cần thiết.
Một ví dụ thậm chí còn sớm hơn là sự trỗi dậy của giao dịch chứng khoán qua "dark pool" (sàn giao dịch chứng khoán riêng tư). Năm 1979, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Hoa Kỳ (US Securities and Exchange Commission) đã ban hành Quy tắc 19c3 (Rule 19c3) cho phép các cổ phiếu được niêm yết trên một sàn giao dịch, chẳng hạn như NYSE, được giao dịch ngoài sàn giao dịch. Nhiều tổ chức lớn đã chuyển giao dịch của họ, đặc biệt là các giao dịch lớn, sang các "dark pool" này, nơi họ giao dịch ngang hàng với chi phí thấp hơn nhiều so với giao dịch truyền thống dựa trên sàn giao dịch.
Chi phí giao dịch quá cao đã mang lại nhiều đổi mới fintech (công nghệ tài chính). Ví dụ, một nhà đổi mới sớm hơn trong lĩnh vực thanh toán là PayPal, được thành lập hơn 20 năm trước. Ngay cả các ngân hàng cũng đã thêm hệ thống thanh toán của riêng họ. Ví dụ, vào năm 2017, bảy trong số các ngân hàng lớn nhất Hoa Kỳ đã ra mắt Zelle. Một điểm chung quan trọng của những tiến bộ fintech giảm chi phí này là những đổi mới này đều dựa vào nền tảng tập trung của cơ sở hạ tầng tài chính hiện tại.